NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

Loại trừ trách nhiệm hình sự là việc một người không phải chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của người đó không bị xem là tội phạm. Loại trừ trách nhiệm hình sự được quy định tại chương IV Bộ luật Hình sự 2015, gồm các trường hợp sau:

1. Sự kiện bất ngờ

Theo quy định tại Điều 20 BLHS năm 2015, người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Nguyên nhân không thấy trước trong trường hợp sự kiện bất ngờ xuất phát từ các yếu tố khách quan, nằm ngoài ý thức của con người.

Sự kiện bất ngờ giống với trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả là người gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội đều không thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra những thiệt hại đó. Tuy nhiên, điểm khác biệt với sự kiện bất ngờ là người có lỗi vô ý vì cẩu thả là người có nghĩa vụ phải thấy trước và có điều kiện để thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội.

2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Trường hợp này được quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015, cụ thể:

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Theo quy định nêu trên, để xác định người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự cần căn cứ vào 02 dấu hiệu:

(1) Dấu hiệu về y học:  Người gây thiệt hại cho xã hội là người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác gây rối loạn hoạt động tâm thần.

(2) Dấu hiệu về tâm lý: Do mắc bệnh tâm thần đã làm mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi.

Như vậy, để xác định được một người đang trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự cần phải thỏa mãn 02 dấu hiệu nêu trên.

3. Phòng vệ chính đáng

Theo Điều 22 BLHS năm 2015, phòng vệ chính đáng là hành vi của người bảo vệ quyền hoặc lợi ích hợp pháp chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

– Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng:

+ Thứ nhất, mục đích thực hiện hành vi là vì lợi ích chính đáng của mình hay của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước thì được quyền thực hiện hành vi khi nguồn nguy hiểm do con người đã và đang gây thiệt hại.

+ Thứ hai, quyền phòng vệ chính đáng chỉ được thừa nhận khi hành vi tấn công trái pháp luật gây thiệt hại đến các lợi ích đang xảy ra và chưa có dấu hiệu dừng lại. Nếu hành vi gây nguy hại cho xã hội đã dừng lại trên thực tế thì quyền phòng vệ không còn.

+ Thứ ba, hành vi tấn công trái pháp luật phải có mức độ nguy hiểm đáng kể mới làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng.

+ Trường hợp đặc biệt, khi hành vi tấn công trái pháp luật tuy chưa xảy ra nhưng có nguy cơ xảy ran gay tức khắc đe dọa đến quyền và lợi ích hợp pháp cần bảo vệ cũng làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng.

– Phạm vi phòng vệ chính đáng:

+ Hành vi phòng vệ chính đáng chỉ được phép gây thiệt hại cho chính người đang có hành vi xâm hại các lợi ích hợp pháp.

+ Không được phép gây thiệt hại cho người thứ ba.

+ Chỉ được quyền gây hại chó người có hành vi tấn công trái pháp luật trong giới hạn cần thiết, tức đủ mức ngăn chặn sự tấn công và bảo vệ được các lợi ích hợp pháp.

– Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.

4. Tình thế cấp thiết

Tình thế cấp thiết được quy định tại Điều 23 BLHS năm 2015, theo đó:

– Cơ sở phát sinh quyền hành động trong tình thế cấp thiết:

Một người được quyền hành động trong tình thế cấp thiết khi có nguồn nguy hại đang xảy ra và chứa đựng nguy cơ tiếp tục đe dọa gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp hoặc tuy nguồn nguy hại chưa xảy ra nhưng có nguy cơ thực tế xảy ra ngay tức khắc gây thiệt hại đến lợi ích mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước.

Khác với nguồn nguy hiểm trong phòng vệ chính đáng chỉ có hành vi trái pháp luật của con người thì nguồn nguy hiểm trong tình thế cấp thiết có thể là bất kỳ nguồn nào (do con người, do thiên nhiên, do sự cố kỹ thuật,…).

– Phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết:

+ Mục đích của quyền hành động trong tình thế cấp thiết là nhằm ngăn ngừa nguy cơ đang đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước.

+ Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải đảm bảo giới hạn là hy sinh một thiệt hại nhỏ để ngăn ngừa và bảo vệ một lợi ích lớn hơn. Nếu gây ra thiệt hại bằng hoặc lớn hơn lợi ích cần bảo vệ thì không coi là hành động trong tình thế cấp thiết.

5. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội

Điều 24 BLHS năm 2015 quy định trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội được loại trừ trách nhiệm hình sự với các dấu hiệu sau:

(1) Đối tượng bị bắt giữ là người phạm tội đang có hành vi chống trả hoặc trốn tránh việc bắt giữ;

(2) Chỉ được sử dụng vũ lực trong điều kiện không còn biện pháp nào khác và biện pháp dùng vũ lực để bắt giữ là biện pháp duy nhất.

(3) Việc bắt giữ có thể gây thiệt hại đến sức khỏe, tài sản cho người bị bắt giữ và được đánh giá là gây thiệt hại trong giới hạn cần thiết.

6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ

Đây là quy định mới của BLHS năm 2015, theo đó hành vi gây thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.

Người nào không áp dụng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên

– Nội dung:

(1) Việc chấp hành mệnh lệnh mà gây thiệt hại cho xã hội chỉ được áp dụng trong lực lượng vũ trang nhân dân, trong các lĩnh vực khác thì không được loại trừ trách nhiệm hình sự.

Ở Việt Nam, theo Điều 12 Luật Quốc phòn năm 2005, lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ.

(2) Người chấp hành mệnh khi thấy có vấn đề không bình thường phải báo cáo đầy đủ với người ra mệnh lệnh nhưn người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành.

(3) Người thi hành mệnh lệnh đã thực hiện mệnh lệnh nên gây thiệt hại cho xã hội. Hậu quả thiệt hại cho xã hội có thể là thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng con người.

– Trường hợp không áp dụng:

Quy định loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên không áp dụng đối với các tội phạm:

+ Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Khoản 2, Điều 421 BLHS);

+ Tội chống loại loài người (Điều 422 BLHS);

+ Tội phạm chiến tranh (Khoản 2 Điều 423 BLHS)

Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật Số 1 Hà Nội. Chúng tôi chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, nhanh chóng cho các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có vướng mắc các vấn đề pháp lý liên quan.

Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ theo thông tin sau:

  • Điện thoại: 024.6656.9880 – Hotline: 096.128.9933
  • Email: luatso1hanoi@gmail.com
  • Fanpage: Công ty Luật Số 1-HN
  • Địa chỉ: Tầng 3, Tòa nhà số 33 Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, TP.Hà Nội