Trên cơ sở đảm bảo quyền con người, xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính là hai quyền được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự hiện hành với hai khái niệm và phạm trù khác nhau. Tuy vậy trên thực tế vẫn có nhiều người đồng nhất việc xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính là một. Phần lớn đều cho rằng một người nhờ sự can thiệp của y học liên quan đến giới tính thì người ấy đã chuyển đổi giới tính hay ngược lại một người giới tính đã được xác định thực hiện phẫu thuật thì lại cho rằng đó là xác định lại giới tính. Chuyển đổi giới tính và xác định lại giới tính khác nhau như thế nào ? Hãy cùng tìm hiểu tại bài viết dưới đây của Luật Số 1 Hà Nội:
1. Xác định lại giới tính
Xác định lại giới tính là một quyền nhân thân được quy định tại Điều 36 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính.”
Trong đó:
+ “Khuyết tật bẩm sinh về giới tính” là những bất thường ở bộ phận sinh dục của một người ngay từ khi mới sinh ra, biểu hiện ở một trong các dạng như: nữ lưỡng giới giả nam, nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng giới thật.
+ “Giới tính chưa được định hình chính xác” là những trường hợp chưa thể phân biệt được một người là nam hay nữ xét cả về bộ phận sinh dục và nhiễm sắc thể giới tính (Theo Điều 2, khoản 1, 2 Nghị định số 88/2008/NĐ-CP).
Quyền xác định lại giới tính đã được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự năm 2005, đến Bộ luật Dân sự năm 2015 có bổ sung thêm một điểm mới đó là: “Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.
Như vậy, pháp luật hiện hành chỉ cho phép xác định lại giới tính trong các trường hợp có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác, có thể nói đây là việc trả lại giới tính bẩm sinh cho họ. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không cho phép xác định lại giới tính trong trường hợp “đã hoàn thiện về giới tính” (khoản 1, Điều 4, Nghị định số 88/2008/NĐ-CP).
2. Chuyển đổi giới tính
Chuyển đổi giới tính là khái niệm dùng để chỉ việc chuyển đổi giới tính của một người, trong đó bao gồm những công đoạn như phẫu thuật chuyển đổi giới tính, tiêm hormone, phẫu thuật chỉnh hình,…
Trước đây, theo Bộ luật Dân sự năm 2005 những người chuyển đổi giới tính là những người có giới tính đã được hoàn thiện rõ ràng, không có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác thì việc họ chuyển từ giới tính nam sang giới tính nữ hoặc ngược lại dù mục đích gì thì việc chuyển giới tính của họ cũng chỉ là việc thực hiện theo “ý thích và mong muốn”, Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính.
Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền chuyển đổi giới tính đã được ghi nhận thành một quyền hợp pháp của công dân. Theo đó, ghi nhận việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan
Kết luận:
Từ điểm khác biệt trên có thể nhận thấy: Xác định lại giới tính khác với chuyển đổi giới tính ở chỗ: xác định lại giới tính được thực hiện trong trường hợp có khuyết tật bẩm sinh biểu hiện ở bộ phận sinh dục hoặc chưa phân biệt được một người là nam hay nữ (sự chưa hoàn thiện về cấu tạo sinh học của cơ thể); Đối với người chuyển đối giới tính thì họ lại có cấu tạo sinh học hoàn chỉnh (nam hoặc nữ). Hay nói cách khác, người chuyển đối giới tính không có khuyết tật bẩm sinh về giới tính mà là người đã có cấu tạo sinh sinh dục hoàn toàn bình thường và giới tính của họ được định hình một cách trọn vẹn dựa trên cấu tạo của cơ thể. Với người chuyển đối giới tính, không có sự xác định lại giới tính.
Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật Số 1 Hà Nội. Chúng tôi chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, nhanh chóng cho các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có vướng mắc các vấn đề pháp lý liên quan.
Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ theo thông tin sau:
-
Điện thoại: 024.6656.9880 – Hotline: 096.128.9933
-
Email: luatso1hanoi@gmail.com
-
Fanpage: Công ty Luật Số 1-HN
-
Địa chỉ: Tầng 3, Tòa nhà số 33 Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, TP. Hà Nội.