Đánh ghen bị “tiểu tam” tố cáo hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm bị xử lý như thế nào?

Tình huống pháp lý: Chào Luật sư ! Tôi có một vấn đề cần luật sư tư vấn ạ. Sự việc cụ thể là như thế này, chồng tôi có ngoại tình với chị T một thời gian thì tôi phát hiện và bắt gặp tại nhà trọ. Trong lúc bắt gặp đó cũng có hành động dở áo chị T và bị người khác chụp hình được, rồi những hình ảnh đó bị đưa lên facebook. Thì chị T này kiện tôi vì lí do xúc phạm danh dự nhân phẩm. Giờ tôi muốn luật sư tư vấn cho tôi về sự việc đó tôi có bị án gì không? và tôi có thể khởi kiện ngược lại không ạ?

Trả lời:

Trước hết, trân trọng cảm ơn chị đã tín nhiệm và chia sẻ vướng mắc pháp lý đến Công ty Luật Số 1 Hà Nội. Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin giải đáp các câu hỏi của chị như sau:

1. Theo như chị trình bày, chị có bắt gặp chồng ngoại tình với chị T tại phòng trọ, sau đó đã có hành vi dở áo chị T và bị người khác chụp hình đưa lên mạng xã hội (Facebook).

Trong trường hợp này, dù có thể chưa gây thương tích cho chị T nhưng hành vi dở áo của người khác ở nơi công cộng, có nhiều người qua lại chứng kiến, hơn nữa còn bị chụp hình và lan truyền trên mạng xã hội. Nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy hành vi dở (lột) áo và những hệ lụy khi bị tung lên mạng xã hội đã gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm và tinh thần của chị T.

Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác tùy theo mức độ khác nhau sẽ phải chịu trách nhiệm khác nhau, bao gồm: Trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự:

(1) Trách nhiệm dân sự:

Theo quy định của Bộ luật Dân sự, người có hành vi làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm người khác phải bồi thường thiệt hại và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

 (2) Xử phạt hành chính:

Theo điểm a, khoản 1, Điều 5, Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ thì mức xử phạt hành chính đối với hành vi này là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng;

(3) Truy cứu trách nhiệm hình sự:

Dựa trên nhưng chứng cứ mà người tố cáo đưa ra, cơ quan công an sẽ tiến hành điều tra, xác minh. Nếu có căn cứ chứng minh các hành vi của chị có mức độ xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội làm nhục người khác” theo Điều 155 Bộ luật Hình sự như sau:

Điều 155. Tội làm nhục người khác

1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Đối với 02 người trở lên;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Đối với người đang thi hành công vụ;

đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

b) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

2. Về câu hỏi: chị có khởi kiện ngược lại được không?

Vì chị không nói rõ chị sẽ khởi kiện chị T về hành vi gì? Mặt khác, chúng tôi cũng không nắm rõ các tình tiết, hành vi vi phạm của chị T trong sự việc nêu trên nên không thể kết luận chị có thể khởi kiện được hay không.

Trong sự việc này, nếu chị có chứng cứ chứng minh chị T có hành vi chung sống như vợ chồng với chồng mình thì có thể tố cáo với cơ quan công an. Cụ thể, kèm với việc tố cáo, chị phải cung cấp được các chứng cứ, căn cứ để chứng minh được hành vi của chị T thỏa mãn 02 điều kiện sau:

– Một là, giữa chồng chị và chị T có hành vi “chung sống với nhau như vợ chồng”. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…

– Hai là, có căn cứ chứng minh được chị T biết rõ chồng chị là người đã có vợ nhưng vẫn có hành vi chung sống như vợ chồng.

Dựa trên những chứng cứ mà chị cung cấp, nếu làm rõ và chứng mình được 02 điều kiện nêu trên thì hành vi của chị T là hành vi chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ.

Theo quy định của pháp luật, chị T có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:

(1) Xử phạt hành chính về hành vi “chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ” theo Khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP: Hành vi này có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

(2) Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với “Tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng” theo Điều 182 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp được quy định sau đây:

Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Như vậy, trong trường hợp có đủ căn cứ chứng minh chị T có hành vi chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, thì tùy vào hậu quả của hành vi mà chị T  có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các quy định nêu trên.

Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật Số 1 Hà Nội. Chúng tôi chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, nhanh chóng cho các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có vướng mắc các vấn đề pháp lý liên quan.
Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ theo thông tin sau:
  • Điện thoại: 024.6656.9880 – Hotline: 096.128.9933
  • Email: luatso1hanoi@gmail.com
  • Fanpage: Công ty Luật Số 1-HN
  • Địa chỉ: Tầng 3, Tòa nhà số 33 Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, TP. Hà Nội.