Giải quyết quan hệ tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Tôi có chồng năm 20 tuổi, lúc cưới không có đăng ký giấy kết hôn và sống với nhau có 2 người con nhưng đến tháng 01 năm 2013 thì 2 vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn nên tôi đã muốn chấm dứt cuộc hôn nhân này và yêu cầu chia tài sản trên tòa án huyện. Từ lúc đưa đơn cho đến nay nếu tính tới thời điểm hiện tại đã là hơn 02 năm nhưng chưa được giải quyết vấn đề chia tài sản. Trong quá trình chung sống chúng tôi có được tài sản gồm: Đất nhà ở, ruộng và Đất bàu và có nuôi 1000 con vịt đẻ.

Bên cạnh tài sản chung thì 2 vợ chồng cũng có khoản nợ chung trong thời gian nộp đơn khởi kiện ở tòa thì chồng tôi hăm dọa không cho ở nhà nên tôi đã dọn ra ngoài ở và có làm đơn nộp nhờ sự can thiệp của cơ quan công an xã. Tôi và chồng có mua đất nhà ở vào năm 2000 của anh trai tôi với giá là 30 triệu, lúc này có giấy mua bán đất trong giấy mua bán có tên tôi và tên thường gọi của chồng nhưng trong sổ đỏ thì chỉ có chồng tôi đứng tên. Chồng tôi bây giờ nói ngược lại là tài sản riêng do mình mua và hiện tại mới đây làm giấy là cha mình cho vàng để mua và có anh em bên chồng xác nhận. Vậy xin hỏi tài sản đất nhà đó sẽ được chia như thế nào?

Còn lại các tài sản khác thì chồng tôi công nhận là tài sản chung nhưng nói là chồng tôi đóng góp công sức nhiều hơn còn tôi chỉ là nội trợ. Tôi ra ngoài sống trong vòng 2 năm thì không thu lợi từ các nguồn tài sản nào mà chồng tôi làm và thu.  Bây giờ chồng tôi làm đơn nộp là trong thời gian tôi ra ngoài chồng tôi đã múc bàu tu sửa lại và thêm nữa là chồng tôi đã bán đi 1000 con vịt để giá 50 ngàn mà vợ chồng tôi đã nuôi để mua vịt khác. Vậy thì tài sản này chia như thế nào?

Chồng tôi làm đơn lên tòa yêu cầu tòa là không công nhận tôi là vợ vì không có giấy kết hôn, có nhận là có 2 người con chung, có nợ chung có tài sản chung là ao hồ, vịt, còn chồng tôi có tài sản riêng là đất nhà. Và do trong quá trình sống chồng tôi làm còn tôi chỉ nội trợ nên yêu cầu tòa chia tài sản cho chồng tôi nhiều hơn.

Chuyên viên tư vấn:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, quan hệ hôn nhân được xác lập sau khi thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Đối với trường hợp của bạn, do không có đăng ký kết hôn nên chỉ được coi là việc nam và nữ sống chung với nhau như vợ chồng, và tài sản được thiết lập trong thời gian này vẫn được coi là tài sản chung và khi một trong hai bên muốn chấm dứt quan hệ sống chung này thì tài sản chung sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật dân sự.

Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:

1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.”

Về mảnh đất 2 vợ chồng bạn mua năm 2000. Mảnh đất này mặc dù được đứng tên chồng bạn, nếu bạn có đủ căn cứ, giấy tờ chứng minh được khối tài sản đó được mua từ tiền chung của hai bạn trong thời kì sống chung thì mảnh đất đó vẫn được coi là tài sản chung của cả hai. Theo khoản 1 Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì việc chia tài sản là mảnh đất này sẽ ưu tiên sự thỏa thuận của hai bạn, trong trường hợp cả hai không không thỏa thuận được với nhau thì sẽ áp dụng quy định tại Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015 về chia tài sản thuộc sở hữu chung như sau:

1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Quy định trên cũng áp dụng đối với các tài sản cả hai bạn đều thống nhất là tài sản chung trong thời kỳ sống chung với nhau như vợ chồng đó là: 1000 con vịt và các tài sản khác

Đối với việc bạn ở nhà nội trợ cũng không thể là căn cứ cho việc chồng bạn yêu cầu đòi một mức chia tài sản cao hơn. Bởi khoản 2 Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định việc phân chia, giải quyết chế độ tài sản thì việc nội trợ cũng được coi là công việc có thu nhập: “Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”.

– Phương Lưu –

Công ty Luật Số 1 Hà Nội