NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định các căn cứ khởi tố vụ án, theo đó chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét ra quyết định khởi tố vụ án và giải quyết theo đúng trình tự pháp luật. Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự cũng có quy định những trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.

So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều điểm mới như: mở rộng phạm vi chủ thể có tư cách bị hại, đồng nghĩa với phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự cũng được mở rộng. Khởi tố vụ án

 

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định có 10 tội phạm thuộc trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, gồm khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết, cụ thể:

  1. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 134);
  2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản 1 Điều 135);
  3. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản 1 Điều 136);
  4. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 138);
  5. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Khoản 1 Điều 139);
  6. Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141);
  7. Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143);
  8. Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155);
  9. Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156);
  10. Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều 226);

Đối với những vụ án rơi vào các trường hợp trên, nếu không có yêu cầu khởi tố người bị hại, thì cơ quan có thẩm quyền khởi tố không được khởi tố, trường hợp là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không thể hiện được ý chí của mình thì khi muốn khởi tố phải có sự đồng ý của người đại diện.

Việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại vẫn phải tuân theo những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự. Đặc biệt, việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, được quyết định trên cơ sở kết hợp 2 yếu tố:
– Có dấu hiệu của tội phạm;
– Có yêu cầu khởi tố về hình sự.
Nếu không có dấu hiệu tội phạm thì dù người bị hại có yêu cầu khởi tố cũng không được khởi tố. Ngược lại, nếu người bị hại không yêu cầu khởi tố thì dẫu đã xác định có dấu hiệu tội phạm cũng không được khởi tố.

Trong trường hợp bị hại rút đơn yêu cầu:

Khoản 2, 3 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định hậu quả pháp lý khi người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố như sau:

– Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ;

– Trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tố tụng vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

– Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Số 1 Hà Nội về những trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại. Nếu bạn còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác vui lòng liên hệ đến Luật sư tư vấn trực tiếp TỔNG ĐÀI TƯ VẤN LUẬT 024.6656.9980 hoặc Emailluatso1hanoi@gmail.com để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.